Đổi mới nhận thức về người học và phương pháp học Ngoại ngữ (P1)
Phần 1: Về chủ thể người học ngoại ngữ
PV: Các bạn thân mến, hôm nay chúng ta sẽ trao đổi về chủ đề Người học và Phương pháp học Ngoại ngữ.
Những vấn đề chung
PV: Trước hết chúng ta đi vào những vấn đề chung nhất. Nói đến các yếu tố cấu thành lên một quy trình sư phạm, yếu tố đầu tiên phải kể đến đó là người học. Bởi đơn giản, nếu không có người học thì cũng không có người dạy, mà không có người học và người dạy thì cũng không thể có lớp học, trường học, không có chương trình, giáo trình, phương pháp, phương tiện dạy học …
Về vấn đề này, chúng ta sẽ cùng trao đổi với PGS Nguyễn Lân Trung.
GV: Thưa PGS, yếu tố người học sẽ nằm ở đâu trong một quy trình, hay nói một cách cụ thể hơn là trong một sơ đồ sư phạm?
PGS: Có nhiều sơ đồ sư phạm khác nhau, nhưng có lẽ sơ đồ phổ biến nhất, đơn giản nhất là hình tam giác mà 3 đỉnh là các yếu tố: người học – người dạy – phương pháp.
Sơ đồ này phản ánh mối quan hệ truyền thống giữa một bên là người “trao” kiến thức và một bên là người “nhận” kiến thức thông qua một “cây cầu”, đó là phương pháp; phương pháp được hiểu theo nghĩa rộng, nó bao gồm cả cách thức dạy-học, phương tiện dạy-học và các điều kiện dạy-học khác.
PGS: Trong sơ đồ này, hai yếu tố người dạy và người học ở trong vị thế tương hỗ, bình đẳng, tuy nhiên yếu tố người thày vẫn có phần được chú trọng hơn ít nhiều, trong một nhận thức “không thày đố mày làm nên”?! Yếu tố phương pháp thì lại chung chung, bao gồm tất cả không gian sư phạm: trí tuệ, tinh thần, vật chất, là dung môi của mối quan hệ liên nhân Thày – Trò.
PV: Thưa PGS, bên cạnh sơ đồ này có những sơ đồ nào khác thường được giới nghiên cứu bàn đến?
PGS: Bên cạnh sơ đồ tam giác này còn có một sơ đồ tam giác khác mà đỉnh thứ ba không còn là khái niệm phương pháp nói chung mà là một yếu tố cụ thể, cái luôn gắn kết chặt chẽ người dạy và người học, là khách thể tạo mối quan tâm thường xuyên của cả Thày và Trò, tạo chức năng riêng cho mỗi người: người thì muốn chuyển giao cái đó hiệu quả nhất, người thì muốn nhận cái đó đầy đủ nhất, yếu tố đó là “kiến thức”.
Mối quan hệ giữa ba yếu tố này được hiểu như sau:
– Quan hệ A – C : giảng dạy
– Quan hệ B – C : học tập
– Quan hệ A – B : đào tạo
PV: PGS có thể giải thích cụ thể hơn ý nghĩa của các mối quan hệ này?
PGS: Chúng ta quan sát sơ đồ sau:
Trong sơ đồ này chúng ta nhận thấy, chiều A – C là sự tìm kiếm một phương pháp truyền thụ tối ưu, là mối quan tâm thường xuyên của người thày đối với khối kiến thức mà thày muốn truyền thụ; chiều C – A là tác động của khối kiến thức đó lên người thày, mỗi một bộ phận kiến thức có một đặc thù riêng, đòi hỏi phải có cách tiếp cận riêng, chưa nói nó luôn phát triển, thay đổi, đòi hỏi người thày cũng phải chuyển động theo. Sự nhận thức, nắm bắt đối với khối kiến thức này rất khác nhau giữa các thày và điều đó ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả dạy-học nói chung.
Chiều B – C là sự tìm kiếm một phương pháp tiếp nhận tối ưu, là mối quan tâm thường xuyên của người học đối với khối kiến thức mà người học muốn tiếp thụ; chiều C – B là tác động của khối kiến thức đó lên người học, năng lực tiếp thu của người học đối với tác động này là rất khác nhau ở từng cá thể và cũng như mối quan hệ A – C, nó ảnh hưởng rất nhiều đến tốc độ, sự sâu sắc, tính hiệu quả của quá trình học tập.
Chiều A – B và B – A là quan hệ liên nhân giữa người dạy và người học. Nếu như chiều A – B là mục tiêu của người thày muốn thực hiện một thiết chế là đào tạo ra một sản phẩm giáo dục với chất lượng cao nhất thì chiều B – A là thái độ của người học trong thiết chế này, thái độ này tác động mạnh mẽ đến người dạy bằng ý thức học tập nghiêm túc, mức độ hứng thú … của người học.
PGS: Bao trùm ba yếu tố này là không gian sư phạm. Người dạy và người học là những cá thể trong xã hội và trong xã hội nói chung mỗi người đều có các tư cách khác nhau: họ là một thành viên trong cộng đồng, một công dân trong một quốc gia, một thành viên trong gia đình … Nhưng khi đã bước vào thiết chế giáo dục thì mỗi người đều có một tư cách mới và họ phải tôn trọng tư cách đó nếu muốn tồn tại trong không gian sư phạm một cách tốt đẹp nhất: người thày có trách nhiệm và nghĩa vụ của nhà giáo dục, còn người học thì phải tôn trọng người thày của mình, giúp người thày thực hiện tốt nhất chức năng của mình.
PV: Chúng ta vừa bàn đến yếu tố người học trong sơ đồ chung về giáo dục. Khi bàn đến người học, ở đây là người học ngoại ngữ, một số câu hỏi sẽ được đặt ra:
– Những yếu tố nào có thể ảnh hưởng đến người học?
– Người học cần có những điều kiện gì?
– Người học cần có những phẩm chất nào?
Trả lời thấu đáo các câu hỏi này sẽ giúp chúng ta có được các tiếp cận tốt nhất, hiệu quả nhất trong quá trình dạy-học ngoại ngữ.
Chúng ta sẽ tiếp tục cuộc trao đổi với PGS Nguyễn Lân Trung.
Những yếu tố ảnh hưởng đến người học
PV: Thưa PGS, chúng ta có thể khái quát như thế nào về những yếu tố có thể tác động đến người học?
PGS: Có nhiều yếu tố có thế tác động và ảnh hưởng đến quá trình học tập của người học. chúng ta có thể kể ra ở đây một số những yếu tố chính sau đây.
Thứ nhất là về độ tuổi.
Người học có thể ở các độ tuổi khác nhau. Trong việc học một ngoại ngữ, độ tuổi là một yếu tố rất quan trọng để xác định phương pháp giảng dạy. Tùy theo tâm lí lứa tuổi, người ta đã xác định các phương pháp học hoàn toàn khác biệt, cho học sinh tiểu học, trung học, đại học. Yếu tố tuổi quyết định trình độ nhận thức, thói quen, hứng thú, nói tóm lại là đặc tính tâm sinh lí lứa tuổi, mà qui trình giáo dục phải đặc biệt quan tâm để có được hiệu quả giáo dục cao nhất.
Thứ hai là về giới tính.
Yếu tố giới tính cũng có thể ảnh hưởng đến quá trình dạy-học. Ở độ tuổi thấp, yếu tố này không có sự quá khác biệt, nhưng càng lên cao, sự khác biệt giới là một yếu tố mà giáo học pháp ngoại ngữ cũng cần quan tâm tới, chẳng hạn như chủ đề văn hóa, đặc điểm hứng thú, quan điểm tranh luận …
Thứ ba là về nguồn gốc.
Giảng dạy ngoại ngữ ở các khu vực địa dư khác nhau có những đặc điểm và điều kiện khác nhau mà quá trình dạy-học cần lưu ý đến, đó là các yếu tố dân tộc, kinh tế, văn hóa, xã hội, là những thói quen khác biệt …, tạo nên những điểm mạnh và điểm yếu của cộng đồng mà người học đã xuất thân từ đấy.
Thứ tư là về trình độ văn hóa.
Trình độ hiểu biết chung và trình độ văn hóa ảnh hưởng lớn đến quá trình thiết kế bài dạy và tư liệu dạy phục vụ người học. Xuất phát từ khởi điểm quá cao hoặc quá thấp đều tạo độ vênh về nhận thức, gây khó khăn cho quá trình tiếp thu của người học. Ví dụ, nhiều yếu tố văn hóa, văn minh nước ngoài không quá xa lạ đối với học sinh ở các thành phố lớn Việt Nam, nhưng lại là sự phát hiện bất ngờ đối với học sinh nông thôn, miền núi, gây nhiều khó khăn và đòi hỏi một tiến độ cũng như sự đầu tư giảng giải nhiều hơn từ người dạy.
Thứ năm là về năng lực chung và năng lực học.
Đây là một trong những yếu tố quyết định chất lượng dạy-học. Nói như vậy không phải là năng lực ban đầu của người học sẽ là bất biến, nó sẽ phát triển dần trong quá trình giáo dục, nhưng chắc chắn rằng các yếu tố tâm sinh lí ban đầu ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình tiếp thu của người học, và rằng người dạy cấn xây dựng các chiến lược truyền thụ khác nhau để đáp ứng hợp lí các mức năng lực này. Rõ ràng là người ta thường nói đến các cá nhân người học có “khiếu” học ngoại ngữ, đó là tổng hòa của các yếu tố về trí nhớ, khả năng bắt chước, tính linh hoạt, khả năng biểu đạt, tính cởi mở, khả năng suy luận … Đánh giá năng lực học là yếu tố góp phần và thành công của quá trình giáo dục.
Thứ sáu là về kinh nghiệm.
Mỗi người học đều có những kinh nghiệm riêng của mình, kinh nghiệm sống, kinh nghiệm làm việc, kinh nghiệm quan hệ, kinh nghiệm học tập …, trong đó kinh nghiệm học tập được tích lũy qua quá trình đào tạo kiến thức chung từ đầu cấp học và qua quan sát trong môi trường ấy. Kinh nghiệm giúp cho người học phát huy những điểm mạnh, hạn chế điểm yếu, hạn chế khó khăn, đẩy nhanh quá trình tiếp thu và thực hành kiến thức có hiệu quả.
Thứ bảy là về nhu cầu, mong muốn.
Là yếu tố có thể nói là đầu tiên ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học tập, là động lực thường xuyên thúc đẩy người học phấn đấu, quyết tâm. Thông thường người ta nói đến ba loại nhu cầu: thứ nhất là từ sở thích cá nhân, thứ hai là do yêu cầu của nghề nghiệp công việc và thứ ba là do sự bắt buộc của thiết chế (ví dụ, môn ngoại ngữ có trong chương trình học thì phải học để có điểm). Dù là loại nhu cầu nào thì mọi quá trình dạy-học đều không thể bỏ qua yếu tố này.
Một số yếu tố khác.
Người học còn bị tác động bởi một số yếu tố bên trong và bên ngoài khác. Đó là các yếu tố về điều kiện gia đình, điều kiện xã hội, điều kiện tài chính và ở bên trong là điều kiện về thể chất, về trạng thái tâm lí tinh thần. Các yếu tố này tạo nên một cảnh huống đặc thù của mỗi người học, có thể giúp hoặc cản trở ở các mức độ khác nhau quá trình học tập của người đó.
Những điều kiện cần có của người học
PV: Thưa PGS, chúng ta vừa bàn đến các yếu tố có thể ảnh hưởng đến người học, vậy những điều kiện cần có của người học sẽ là gì thưa ông?
PGS: Người học cũng phải thỏa mãn những điều kiện nhất định, những điều kiện đó giúp họ có thể có được những kết quả tốt nhất trong quá trình học tập.
Đầu tiên phải kể đến những kiến thức có được trước khi học.
Tất cả người học đều đã có những kiến thức trước khi bước vào một quá trình đào tạo nào đó, chỉ có điều những kiến thức này ở các mức độ khác nhau. Đây là những điều kiện tiên quyết và ở những mức độ nào đó nó cho phép người học được hoặc không được tham gia một quá trình đào tạo nào đó. Ví dụ, trong ngoại ngữ, người theo học trình độ A2 cần có đầu vào kết thúc trình độ A1, người theo học trình độ C1 cần có đầu vào kết thúc trình độ B2. Hoặc như trẻ em có thể nói lưu loát ngoại ngữ nhưng vẫn không đủ hiểu biết chung, không đủ tư duy và kiến thức nền để tiếp cận trình độ C1 hoặc C2. Vì vậy kiến thức có trước khi học cần phải được coi trọng ở đầu vào.
Thứ hai là khả năng học tập
Ở đây chúng ta hiểu là những điều kiện năng lực chung. Trước hết, đó là những người học có khả năng tư duy bình thường, không bị những bệnh lí bẩm sinh hoặc thiểu năng nào đó. Thứ hai là việc đánh giá các khả năng học tập ở những mức độ nào, các năng lực này là điều kiện quan trọng đảm bảo hiệu quả học tập. Ví dụ, đối với ngoại ngữ, khả năng nghe và khả năng diễn đạt là những kĩ năng đóng vai trò bản lề.
Thứ ba là khả năng kết nối, tổ chức học tập
Hiệu quả học tập của một cá nhân phụ thuộc rất nhiều vào khả năng kết nối các yếu tố, các điều kiện và khả năng tự tổ chức quá trình học tập của mình. Quá trình này càng hợp lí, càng khoa học, phát huy được các yếu tố tích cực, hạn chế được các yếu tố tiêu cực bao nhiêu thì hiệu quả học tập sẽ cao bấy nhiêu. Ngày nay người ta thường nhắc nhở các nhà sư phạm hãy chú ý nhiều hơn nữa đến việc dạy cho người học cách học chứ không chỉ dạy kiến thức nói riêng.
Thứ tư là sự yêu thích, đam mê
Như đã được phân tích trong phần những yếu tố ảnh hưởng đến người học, sự yêu thích, đam mê, hứng thú học tập trở thành điều kiện cần có của người học, mà không có các điều kiện này, một quá trình học không bao giờ có thể thành công được. Có thể yếu tố này còn mờ nhạt lúc đầu, nhưng nó cần được chú ý, được phát huy, được nuôi dưỡng để lớn dần lên, dần trở thành ý nghĩa lớn lao đối với người học. Trong học ngoại ngữ, ngoài nhu cầu thì sự yêu thích đam mê sẽ thúc đẩy người học phấn đấu để đạt mục đích, chẳng hạn như để hát được một bài hát nước ngoài, được khám phá yếu tố văn hóa văn minh nước ngoài, được thực hành tiếng nước ngoài trong chuyến đi du lịch, được dịch một chuyện vui gửi tới bạn bè …
Thứ năm là việc có được các thông tin về quá trình học
Đây là những thông tin về nội dung và cả về hình thức tổ chức. Những thông tin hữu ích này giúp cho người học chủ động tổ chức quá trình học tập của mình một cách phù hợp nhất. Chẳng hạn như người học tham gia một khóa học ngoại ngữ cần nắm bắt yêu cầu cụ thể cần đạt được về kiến thức ngôn ngữ cũng như về các kĩ năng tiếng như thế nào, những tài liệu có thể sử dụng là gì, phương pháp học ra làm sao và hình thức tổ chức về mặt thời gian, không gian là thế nào …
Những phẩm chất cần có của người học
PV: Thưa PGS, gần đây mọi người có nói khá nhiều về những phẩm chất cần có của người học. Vậy ông có thể cho biết ý kiến của mình.
PGS; Bàn đến những phẩm chất cần có của người học chính là việc xây dựng lên “hình dạng mẫu” của người học. Có nhiều quan điểm khác nhau. Chúng ta có thể tham khảo “bản nhận dạng” của nhóm IB, tức là nhóm nghiên cứu thuộc Tổ chức giáo dục International Baccalaureate.
9 Bảng chữ
– Người học có tư duy cởi mở
+ Hiểu mình, tự tin về hiểu biết của mình và sẵn sàng chia sẻ với những người khác.
+ Mở rộng cửa để đón các hiểu biết mới, không định kiến, không bảo thủ.
+ Mong muốn tìm hiểu quan điểm của người khác và sẵn sàng học hỏi để gia tăng hiểu biết của mình.
– Người học giao tiếp
+ Biết sử dụng mọi phương tiện, mọi hình thức giao tiếp.
+ Biết hợp tác hiệu quả với mọi người.
+ Hiểu và diễn đạt được các ý tưởng, các nội dung kiến thức một cách tự tin và sáng tạo.
– Người học nắm thông tin
+ Biết khai thác các khái niệm, các ý tưởng và các vấn đề quan trọng.
+ Có được kiến thức sâu rộng, mở rộng hiểu biết trong các lĩnh vực khác nhau.
+ Biết sử dụng tốt những gì học hỏi được áp dụng vào trong các tình huống khác nhau.
– Người học suy ngẫm
+ Biết phân tích tình huống một cách phê phán và sáng tạo.
+ Biết làm sao cho các ý tưởng của mình trở nên có giá trị.
+ Biết tìm cách tối ưu giải quyết các vấn đề và ra được các quyết định đúng đắn.
– Người học biết chiêm nghiệm
+ Biết tự đánh giá điểm mạnh và điểm hạn chế của mình.
+ Luôn chiêm nghiệm các cách học mới, các kinh nghiệm của người khác.
+ Có ý thức về khó khăn và tìm được cách thức tháo gỡ.
+ Có khả năng phát huy những thói quen làm việc hiệu quả.
– Người học biết đầu tư
+ Luôn biết tự vấn và “tò mò”.
+ Biết huy động sự hiểu biết của mình.
+ Biết tìm kiếm thông tin từ các nguồn khác nhau.
+ Biết sử dụng các chiến lược hợp lí và thích học hỏi.
– Người học biết dấn thân
+ Biết chấp nhận các hệ quả của các hành động của mình.
+ Trung thực với bản thân và người khác.
+ Tôn trọng cá nhân, nhóm và cộng đồng.
– Người học có dũng khí
+ Dám làm những thử nghiệm mới.
+ Chấp nhận có thể sai lầm.
+ Dám bảo vệ niềm tin của mình.
+ Biết tiếp cận các tình huống bất thường một cách dũng cảm và có suy xét.
– Người học có tâm thế cân bằng
+ Biết đánh giá điểm mạnh, mối quan tâm và điểm yếu của mình.
+ Coi trọng sự cân bằng trí tuệ, thể chất và tình cảm.
+ Lựa chọn được cách hành xử phù hợp với lợi ích của bản thân và của người khác.
PGS: Như vậy chúng ta có thể đánh giá người học dựa trên hai trục, một trục là trục ý thức và một trục là trục năng lực, với các giá trị giả định về từng khu vực ý thức và năng lực như được trình bày ở trên.
PGS: Theo sơ đồ trên, hướng tiến đến của chúng ta phải là người học có ý thức và có năng lực.
Chúng ta cũng có thể quan sát một bảng khác đánh giá tính cách và việc miêu tả các tính cách đó được nhóm IB xây dựng như sau:
|
Tính cách |
Miêu tả |
1 |
Làm chủ bản thân |
Kìm nén được, kiểm soát được cảm xúc |
2 |
Ổn định tâm tính |
Tính khí ổn định, mạnh mẽ |
3 |
Độc lập |
Khả năng tự điều chỉnh |
4 |
Nghiêm túc |
Khả năng đối mặt với cuộc sống một cách nghiêm túc |
5 |
Trách nhiệm |
Tính trách nhiệm, cam kết, đáng tin cậy |
6 |
Phương pháp |
Khả năng nhìn trước, hoạch định tương lai, kiên trì |
7 |
Chịu đựng |
Khả năng và ý chí đương đầu với mọi khó khăn |
8 |
Kinh nghiệm |
Nhận thức rộng, hiểu biết |
9 |
Khách quan |
Nhìn xa, thực tế |
10 |
Ra quyết định |
Khả năng quyết đoán |
11 |
Ưu tiên |
Khả năng xác định những gì cần thiết nhất, tại đâu và ở thời điểm nào |